Bạch quả: Loài cây tốt cho trí não con người
Việc sử dụng lá Bạch quả được ghi chép lần đầu trong Điển niên bản thảo Vân Nam, xuất bản năm 1436. Khi đó, lá Bạch quả được sử dụng bên ngoài để điều trị vết loét, dùng bên trong để điều trị tiêu chảy, và dùng như một loại thuốc bổ cho tim, phổi.
Trong những năm 1700 Bạch quả (Ginkgo biloba) đã được biết đến ở châu Âu, và khoảng 60 năm sau đó là ở Bắc Mỹ. Bạch quả được dùng làm thuốc chữa bệnh ở phương Tây từ những năm 1900, khi chiết xuất từ lá có tác dụng cải thiện lưu thông tuần hoàn máu, đặc biệt là các mạch máu não và tứ chi. Hiện nay, ở Mỹ và châu Âu, các chế phẩm có thành phần cao lá Bạch quả hiện nay là một trong những loại thuốc thảo dược bán chạy nhất.
Ngày nay, Bạch quả được sử dụng phổ biến nhằm điều trị bệnh sa sút trí tuệ, do thiểu năng tuần hoàn máu não. Nó giúp cải thiện sự suy nghĩ, nhận thức và trí nhớ ở những người mắc bệnh Alzheimer. Các bác sĩ cũng dùng Bạch quả để điều trị các bệnh như thiểu năng tuần hoàn não, thoái hóa điểm vàng, hội chứng tiền đình, ù tai, trầm cảm, lo âu, căng thẳng, viêm tắc mạch máu chi, hội chứng Raynaud.
Trong lá Bạch quả có chứa các Terpenoid, Flavonoid và một số thành phần khác như Catechin, các hợp chất Phenol, các Polysaccharid, các Sterol, tinh dầu, Brom, sáp… Trong thịt quả có chứa các Acid phenol có độc tính, hạt chứa nhiều dầu béo.
Tác dụng dược lý của Bạch quả như sau:
Cải thiện tuần hoàn máu não và tuần hoàn ngoại biên.
Cải thiện chức năng tiền đình và thính giác.
Đối kháng với các yếu tố hoạt hóa tiểu cầu.
Chống oxy hóa, loại bỏ các gốc tự do.
Chống viêm tại chỗ.
Giảm co thắt cơ trơn, giảm đau trên các cơn đau quặn.
Ức chế một số vi khuẩn.
Cách sử dụng:
Trà: Cho 1 muỗng cà phê lá Bạch quả trong 100ml nước sôi hãm trong vòng 5 - 7 phút. Uống 1 - 2 ly mỗi ngày sẽ giúp chống căng thẳng, stress.
Dạng thuốc chiết xuất: Hầu hết các nghiên cứu đã được tiến hành cho rằng dùng liều 120 mg/ngày chia hai lần chất chiết xuất chuẩn hóa đến 24 - 27% Glycosides flavone và khoảng 6 – 7% Triterpenes, đối với bệnh viêm tắc động mạch ngoại biên có thể dùng liều 120 – 160mg/ngày. Thời gian dùng thuốc từ 4 – 12 tuần tùy vào từng trường hợp bệnh nhân cụ thể.
>> Xem thêm: Tự phân biệt đâu là u lành tính, đâu là u ác tính
(Tổng hợp)